Thủy sinh là một thú chơi mới phát triển mạnh ở Việt Nam trong 10 năm trở lại đây, nhưng thật sự trên thế giới nó có lịch sử cũng đã lâu, và trong bài viết này tôi sẽ giới thiệu cơ bản với các bạn về lịch sử phát triển của hồ thủy sinh.
Một hồ thủy sinh nước ngọt được xem là một vườn thú tự nhiên bao gồm ít nhất một mặt trong suốt mà các loài thủy sinh có thể sing sống được. Hồ thủy sinh chủ yếu để nuôi cá mặc dù các loài có xương sống, lưỡng cư, động vật có vú và cây thủy sinh có thể sinh sống được trong hồ thủy sinh.Hồ thủy sinh có một lịch sử lâu đời và trở nên phổ biến trên toàn thế giới, một người sở hữu một hồ thủy sinh được xem như là chuyên gia về thủy sinh. Hồ thủy sinh được tạo từ nhiều lọai vật liệu, hình dáng và kích thước, thông thường được làm từ kiếng hay nhựa chịu lực. Hồ thủy sinh hình khối cũng được biết như là hồ nuôi cá hoặc đơn giản là bình chứa, hay chỉ là một cái chén thủy tinh rât phổ biến để nuôi cá. Số lượng nguyên vật liệu được sử dụng thích hợp để duy trì chất lượng nước và các đặc tính của từng lòai thủy sinh. Có nhiều kiểu hồ thủy sinh, được phân lọai theo chất liệu hay kiểu môi trường sống.
Nuôi cá trong môi trường nhân tạo đã tồn tại từ nhiều thế kỷ. Thời La Mã cổ đại, con cá đầu tiên được mang vào trong nuôi nhà là một lòai cá chép, nó được để dưới gầm giường của khách trong một bình cẩm thạch nhỏ. Với sự xuất hiện của thuỷ tinh vào năm 50, người La Mã thay thế bằng một vách cẩm thạch để cải thiện tầm nhìn. Năm 1369, Hòang Đế TQ tên là Hongwu thành lập một xưởng sản xuất gốm sứ để làm những chậu gốm lớn để nuôi cá vàng, theo thời gian, những chiếc bình gốm này được thay thế bằng những chén gốm hiện đại hơn.
Năm 1836, không lâu sau phát minh chiếc hộp của Ward, ông ta đề nghị sử dụng chiế hộp của ông để nuôi thú, mặc dù chỉ trồng cây thủy sinh và cá giả. Năm 1838, Felix Dujardin thông báo đã sở hữu hồ nước biển, cho dù ông ta đã không cho biết thời hạn nuôi. Năm 1846, Anne Thynne đã duy trì được hồ san hô và rong biển trong gần 3 năm, ông ta được tín nhiệm như là người đầu tiên tạo sự cân bằng của hồ thủy sinh ở London. Vào cùng thời gian này, Robert Warington thí nghiệm hồ 13 gallon nước (hơn 50l) chứa cá vàng, cỏ đuôi rắn và ốc sên, ông ta đã tạo nên một hồ thủy sinh ổn định nhất và đưa lên tạp chí Chemical Society năm 1850.
Đến năm 1908, tại Hồ Detroit, công viên đảo Belle, nuôi cá trong hồ trở thành thú chơi phổ biến và nhanh chóng lan rộng. Tại Anh Quốc, thú chơi này cũng trở nên phổ biến sau khi được trang trí lộng lẫy trong những khung bằng sắt ở triển lãm Great Exhibition năm 1851. Năm 1853, một hồ thủy sinh lớn đầu tiên được thành lập ở vườn thú London được biết tên là Fish House.
Năm 1854, tại nước Đức, 2 đề mục về hồ nước biển được đăng trên tạp chí The Garden House với tựa là “The Ocean on the Table” của một tác giả vô danh. Tuy nhiên, năm 1856 “The Lake in a Glass” được xuất bản đã thảo luận về hồ nước ngọt, một cách dễ hơn nhiều để giữ ổn định đất trồng.Suốt thập niên 1870 , vài hội thủy sinh ra đời tại Đức, theo sau đó là ở Mỹ. Năm 1858, “The Family Aquarium” của Herry D. Butler là một trong những quyển sách đầu tiên viết về hồ thủy sinh được bán tại Mỹ. Hội thủy sinh đầu tiên được thành lập ở NewYork City năm 1893, sau đó là một vài hội khác cũng được ra đời.
Vào kỷ nguyên Victory ở Anh Quốc, thiết kế thông thường cho hồ thuỷ sinh gia đình là mặt kiếng phía trước, các mặt còn lại làm bằng gỗ được dán bằng nhựa đường để kín nước. Đáy được làm bằng đá phiến được làm ấm bên dưới. Các hệ thống hồ tiến bộ hơn được thiết kế bằng kiếng và khung kim loại bao xung quanh. Trong suốt nửa cuối TK 19, nhiều kiểu thiết kế hồ được sang tạo như treo hồ trên tường, viền trang trí như một phần của cửa sổ hay thậm chí kết hợp với chuồng nuôi chim.
Hồ thuỷ sinh nhanh chóng phát triển khắp thế giới nhất là sau cuộc cách mạng điện tử sau thế chiến thứ I. Điện tử đã cải thiện rất nhiều kỹ thuật làm hồ thuỷ sinh, cho phép đưa ánh sáng nhân tạo cũng như khí CO2 vào hồ, lọc nước và làm ấm nước. Bao bì nhựa ra đời vào thập niên 1950 tạo điều kiện dễ dàng cho việc vận chuyển các loại cá. Ngay cả cũng xuất hiện vận chuyển bằng đường hàng không, đặc biệt là đường thuỷ để vận chuyển xa hơn tới những người mới chơi . Vào thập niên 1960, Một phát hiện quan trọng là những khung bằng kim loại có thể bị ăn mòn, nhưng Silicone thì không và có thể làm hồ toàn bằng thuỷ tinh.
Hồ thuỷ sinh vẫn giữ được sự phổ biến khắp thế giới với hơn 60 triệu người chơi. Tại Mỹ, chơi hồ chỉ đứng thứ hai sau thú chơi sưu tầm tem. Năm 1999, khoảng trên 9 triệu người Mỹ sở hữu hồ thuỷ sinh. Năm 2005, khoảng 139 triệu con cá nước ngọt và 9 triệu cá nước biển được nuôi ở Mỹ, trong khi ở Đức ít nhất khoảng 36 triệu loài. Thú chơi này phát triển mạnh nhất theo sau là châu Âu, Á và Bắc Mỹ. Tại Mỹ, 40% người chơi sở hữu cùng lúc ít nhất 2 hồ trở lên.